Từ xưa đến nay, tinh thần “tương thân tương ái; lá lành đùm lá rách” là một truyền thống vô cùng quý báu và cao đẹp của con người Việt Nam. Việc vận động quyên góp, ủng hộ từ thiện để cứu giúp những người trong cơn hoạn nạn; thiên tai, dịch bệnh luôn được xã hội đánh giá là nghĩa cử cao đẹp, đáng trân trọng. Thế nhưng, lợi dụng hoạt động này; một số cá nhân đã huy động tiền ủng hộ hoặc tự kêu gọi ủng hộ nhưng với mục đích là để ăn chặn, chiếm đoạt hay trục lợi số tiền từ thiện đó. Vậy những người này phải chịu trách nhiệm như thế nào trước pháp luật? hãy cùng Luật sư tìm hiểu trong bài viết này.
Hành vi cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Căn cứ khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản cấu thành Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản khi thỏa mãn một trong các dấu hiệu sau:
– Tài sản chiếm đoạt trị giá từ 02 triệu đồng trở lên.
– Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm.
– Đã bị kết án về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hoặc về một trong các tội quy định tại các Điều 168, 169, 170, 171; 172, 173, 175 và 290 Bộ luật Hình sự 2015 được sửa đổi; bổ sung 2017, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm.
– Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
– Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Khung hình phạt Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Khung hình phạt cơ bản
Khoản 1 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 quy định:
“1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng; nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt tài sản mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 175 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ”
Như vậy, khung hình phạt nhẹ nhất nếu bị kết án về Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản là phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Khung hình phạt tăng nặng thứ nhất
Theo khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 – 07 năm:
– Có tổ chức;
– Có tính chất chuyên nghiệp;
– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50 đến dưới 200 triệu đồng;
– Tái phạm nguy hiểm;
– Lợi dụng chức vụ, quyền hạn hoặc lợi dụng danh nghĩa cơ quan, tổ chức;
– Dùng thủ đoạn xảo quyệt.
Khung hình phạt tăng nặng thứ hai
Căn cứ khoản 3 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015, phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 07 – 15 năm:
– Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200 đến dưới 500 triệu đồng;
– Lợi dụng thiên tai, dịch bệnh.
Khung hình phạt tăng nặng thứ ba
Khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015 quy định phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 – 20 năm hoặc tù chung thân:
– Chiếm đoạt tài sản trị giá 500 triệu trở lên.
– Lợi dụng hoàn cảnh chiến tranh, tình trạng khẩn cấp.
Ngoài việc bị áp dụng một trong những hình phạt chính như trên; thì người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10 – 100 triệu đồng; cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 – 05 năm; hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản (theo khoản 5 Điều 174 Bộ luật Hình sự 2015).
Trên đây là quan điểm của Luật sư về Vấn đề ăn chặn, chiếm đoạt tiền từ thiện . Quý khách hàng quan tâm vui lòng liên hệ:
Phone: 0966.871.495 – 0396.496.727
Email: Ls.quangsang@gmail.com